Khi lỗi thuộc về những vì sao
Phan_3
“Tất cả mọi thứ. Từ tiểu thuyết lãng mạn ba xu đến siêu phẩm trứ danh, rồi cả thơ ca. Đủ mọi thể loại.”
“Thế em cũng làm thơ chứ?”
“Không. Tôi không làm thơ.”
“Đó, thấy chưa!” Augustus gần như hét lên. “Hazel Grace, em là thiếu nữ duy nhất ở nước Mỹ này thích đọc thơ hơn là làm thơ. Điều này cho anh biết thêm nhiều về em đấy. Có phải em đọc rất nhiều cuốn siêu phàm với chữ S viết hoa không?”
“Chắc vậy!”
“Cuốn sách yêu thích của em là gì?”
“Ừm,” tôi băn khoăn.
Cuốn sách yêu thích của tôi, xét trên diện rộng, là cuốn Nỗi đau tột cùng, nhưng tôi không muốn nói với ai về nó. Đôi khi, bạn đọc một cuốn sách và nó truyền một nguồn cảm hứng nhiệt thành mạnh mẽ đến mức bạn bị thuyết phục rằng thế giới đang bị chia cắt này sẽ không bao giờ hòa hợp được với nhau trừ khi và chỉ khi toàn thể nhân loại đều đọc cuốn sách đó. Và cũng có những cuốn sách như Nỗi đau tột cùng, những cuốn sách rất đặc biệt, rất hiếm hoi và rất riêng đến mức nếu giới thiệu nó và chia sẻ cảm giác yêu thích của mình cho người khác thì chẳng khác gì phản bội cả.
Nó thậm chí không hẳn là một cuốn sách quá hay; chỉ là tác giả của nó, nhà văn Peter Van Houten, dường như thấu hiểu tôi một cách kỳ lạ và không tưởng. Nỗi đau tột cùng là cuốn sách của riêng tôi, giống như cơ thể của tôi là cơ thể của riêng tôi và suy nghĩ của tôi là suy nghĩ của riêng tôi vậy.
Mặc dù vậy, tôi vẫn nói với Augustus. “Cuốn sách yêu thích của tôi có lẽ là cuốn Nỗi đau tột cùng,” tôi đáp.
“Nó có viết về xác sống không?” anh hỏi.
“Không,” tôi trả lời.
“Hay xung kích quân?”
Tôi lắc đầu, “Nó không phải thể loại đó.”
Anh mỉm cười. “Anh sẽ đọc cuốn sách kinh khủng có tiêu đề chán ngắt mà lại không viết về xung kích quân này,” anh hứa, và ngay lập tức tôi cảm thấy mình không nên kể với anh về cuốn sách đó. Augustus xoay người về phía chồng sách bên dưới chiếc bàn cạnh giường. Anh chộp lấy một cuốn sách và một cây bút. Vừa viết nguệch ngoạc lên trang bìa của cuốn sách, anh vừa nói, “Đổi lại anh chỉ yêu cầu em một điều thôi – hãy đọc phiên bản tiểu thuyết xuất sắc và đầy ám ảnh của trò chơi điện tử yêu thích của anh.” Anh chìa quyển truyện về phía tôi, tựa nó là Cái giá của Bình minh. Tôi cười và cầm lấy. Tay chúng tôi chạm nhau và sau đó anh nắm lấy tay tôi. “Lạnh vậy,” anh thốt lên, ấn một ngón tay lên cổ tay xanh xao của tôi.
“Không lạnh như khi bị suy hô hấp,” tôi bảo.
“Anh thích khi em dùng ngôn ngữ y học với anh,” anh nói rồi đứng dậy, kéo tôi lên theo và không thả tay tôi cho đến khi chúng tôi ra đến cầu thang.
…
Chúng tôi ngồi cách nhau chừng một gang trên ghế xô-pha và cùng xem phim. Tôi đã hành động như nữ sinh trung học, đó là đặt hờ tay mình ở giữa hai chúng tôi, để anh biết có thể nắm tay tôi, nhưng anh chẳng buồn để ý. Xem độ một giờ thì ba mẹ của Augustus mang món bánh ngô ra. Chúng tôi ăn ngay trên ghế xô-pha và mấy cuốn bánh khá ngon.
Bộ phim kể về một người anh hùng đeo mặt nạ đã hy sinh anh dũng cho Natalie Portman, một cô nàng sống phóng khoáng, khá nóng bỏng và không có bất cứ vẻ gì gọi là hao hao với khuôn mặt sưng húp vì thuốc của tôi cả.
Khi phim đang chiếu, anh hỏi, “Phim hay, đúng không?”
“Cũng hay,” tôi đồng tình. Mặc dù thực sự thì nó chẳng hay tẹo nào. Đó là một bộ phim dành cho con trai. Tôi không biết tại sao con trai lại hy vọng con gái chúng tôi thích xem phim của con trai. Chúng tôi chẳng bao giờ mong họ thích phim của con gái cả. “Tôi nên về nhà. Sáng mai tôi có lớp,” tôi nói.
Tôi ngồi trên ghế xô-pha trong lúc Augustus lục tìm chìa khóa xe. Mẹ anh ngồi xuống bên cạnh tôi và bảo: “Bác rất thích câu này, cháu thích không?” Tôi đoán do mình đã nhìn về phía Lời Động Viên đính trên ti-vi, trên đó có hình một thiên thần cùng với câu ‘Nếu không có nỗi đau, làm sao chúng ta cảm thụ được niềm vui?’
(Đây là một lập luận cũ rích trong lĩnh vực Suy Ngẫm Về Sự Đau Khổ. Và sự ngớ ngẩn cũng như thiếu tinh tế của nó có thể còn được soi xét trong nhiều thế kỷ nữa, nhưng chỉ cần nói rằng sự tồn tại của bông cải xanh không thể nào ảnh hưởng đến hương vị của sô-cô-la là đủ rồi). “Vâng ạ,” tôi đáp. “Một câu rất hay.”
Tôi lái xe Augustus về nhà, và anh ngồi bên cạnh nghịch máy móc. Anh bật bài hát yêu thích của một ban nhạc mang tên The Hectic Glow. Nhạc khá hay, nhưng vì chưa từng nghe qua nên với tôi chúng không hay như anh nói. Thỉnh thoảng tôi liếc nhìn anh, đúng hơn là nhìn khúc chân giả và tự hỏi mang chân giả thì như thế nào. Tôi không muốn quan tâm đến chuyện giả - thật, nhưng quả thật tôi khá băn khoăn. Có thể anh cũng quan tâm đến bình ô-xy của tôi. Hội chứng của bệnh tật. Tôi vỡ ra điều này từ lâu, và tôi nghi Augustus cũng thế.
Khi tôi dừng xe phía ngoài nhà mình, Augustus tắt nhạc. Không khí trong xe tự nhiên đặc quánh. Có thể anh đang nghĩ đến việc hôn tôi, và tôi hiển nhiên đang nghĩ đến việc hôn anh. Chợt tự hỏi liệu tôi có thực sự muốn vậy không. Tôi từng được hôn nhưng chuyện cũng lâu rồi, từ trước khi Phép màu xảy ra.
Tôi đưa xe vào bãi đậu và nhìn qua anh. Anh thật xinh đẹp. Tôi biết không ai dành lời khen xinh đẹp cho phái khỏe cả, nhưng anh thì khác.
“Hazel Grace,” anh cất lời, tên tôi nghe thật lạ và hay làm sao qua chất giọng trầm của anh. “Thật sự anh rất vui khi quen em.”
“Tôi cũng vậy, ngài Waters ạ,” tôi đáp, ngại ngùng tránh nhìn vào mắt anh. Tôi không thể đối diện với tia nhìn mãnh liệt từ đôi mắt xanh biếc ấy.
“Anh có thể gặp em nữa không?” anh hỏi. Có một sự căng thẳng đáng yêu trong giọng nói của anh.
Tôi mỉm cười. “Được mà.”
“Ngày mai nhé?” anh hỏi ướm.
“Kiên nhẫn đi nào, anh chàng bộp chộp,” tôi khuyên. “Hẳn anh không muốn mình có vẻ quá háo hức đấy chứ?”
“Phải, đó là lý do tại sao anh hẹn ngày mai,” anh đáp tỉnh bơ. “Anh muốn gặp em lần nữa ngay tối nay kìa. Nhưng anh sẵn sàng chờ đợi suốt đêm nay và cả ngày mai.” Tôi trợn tròn mắt. “Anh nói nghiêm túc đó,” anh bảo.
“Anh thậm chí không biết tôi,” tôi nói. Tôi chộp lấy quyển truyện và lí lắc hỏi: “Hay tôi sẽ gọi anh khi đọc hết quyển này nhé?”
“Nhưng em còn chưa có số điện thoại của anh mà,” anh đáp.
“Tôi tin là anh đã viết nó trong quyển truyện này rồi.”
Anh nở một nụ cười ngớ ngẩn. “Vậy mà em bảo là chúng ta không biết nhau.”
Chương 3
Đêm đó tôi thức khá trễ vì mải mê đọc cuốn Cái giá của Bình minh. (Cảnh báo ẩn: Cái giá của Bình minh là máu.) Đây không phải truyện Nỗi đau tột cùng, nhưng nhân vật chính, Trung sĩ Max Mayhem, cũng hơi bị đáng yêu mặc dù đã ‘xử đẹp’, theo tôi đếm, ít nhất 118 người trong 284 trang truyện.
Thế nên tôi dậy muộn vào sáng hôm sau, thứ Năm. Chủ trương của Mẹ là không bao giờ đánh thức tôi, bởi vì một trong những yêu cầu công việc của Bệnh Nhân Chuyên Nghiệp là phải ngủ thật nhiều. Nên tôi hơi bối rối khi giật mình thức dậy và thấy Mẹ đang lay vai tôi.
“Gần mười giờ rồi con,” bà âu yếm nói.
“Ngủ giúp chữa lành ung thư mà Mẹ,” tôi trả lời, giọng còn ngái ngủ. “Tối qua con thức khuya đọc sách.”
“Thì sách truyện chứ gì!” Mẹ nói khi bà quỳ bên cạnh giường và loay hoay tháo giúp tôi cái máy tạo ô-xy cá nhân hình chữ nhật, mà tôi gọi là Philip, bởi vì nó trông vạm vỡ y như chàng Philip huyền thoại.
Mẹ móc cho tôi một chiếc bình ô-xy di động rồi nhắc tôi có lớp học sáng nay. “Anh chàng tối qua cho con cái này à?” Mẹ hỏi vu vơ.
“Cái này ý Mẹ là mấy nốt mụn giộp hả?”
“Con suy nghĩ linh tinh quá,” Mẹ kêu lên. “Là cuốn truyện, Hazel. Ý Mẹ hỏi cuốn truyện ấy.”
“Dạ, anh ấy đưa cho con cuốn truyện này.”
“Mẹ thấy con thích anh chàng này,” Mẹ vừa nói vừa nhướng mày, như thể sự quan sát này đòi hỏi bản năng đặc biệt của người mẹ. Tôi nhún vai. “Mẹ đã nói với con là Hội Tương Trợ này cũng đáng tham gia mà.”
“Bộ Mẹ đứng ngoài chờ con suốt buổi hay sao mà Mẹ biết?”
“Ừ. Mẹ có mang theo một số tài liệu để đọc. Mà thôi, đã đến lúc bắt đầu ngày mới rồi thưa quý cô.”
“Mẹ à! Ngủ. Ung thư. Chữa bệnh.”
“Mẹ biết rồi, con cưng, nhưng còn lớp học sáng nay. Và hôm nay là ngày…” Giọng Mẹ không giấu được vẻ hân hoan.
“Thứ Năm?”
“Con không nhớ ngày thật à?”
“Hì, chắc vậy.”
“Hôm nay là thứ Năm, ngày hai mươi chín tháng Ba!” Mẹ gần như hét lên, một nụ cười rạng rỡ bừng sáng trên khuôn mặt bà.
“Mẹ thật sự phấn khích về vụ ngày tháng nhỉ!” Tôi cũng hô to.
“HAZEL. HÔM NAY LÀ SINH NHẬT LẦN THỨ BA MƯƠI BA CHIA ĐÔI CỦA CON ĐÓ!”
“Ồ,” tôi ngạc nhiên đáp. Mẹ tôi thực sự là chuyên gia siêu giỏi trong việc tìm mọi lý do để tăng số ngày lễ kỷ niệm trong năm. HÔM NAY LÀ NGÀY CÂY XANH! NÀO, CHÚNG TA HÃY CÙNG ÔM CÂY VÀ ĂN BÁNH! COLUMBUS MANG BỆNH ĐẦU MÙA ĐẾN CHO NGƯỜI DÂN BẢN ĐỊA; CHÚNG TA NÊN TƯỞNG NIỆM SỰ KIỆN NÀY BẰNG MỘT BUỔI PICNIC DÃ NGOẠI!, v.v. “Chà, xin Chúc mừng Sinh nhật Lần thứ Ba mươi ba Chia đôi của con,” tôi hùa theo.
“Con muốn làm gì vào ngày rất đặc biệt này của mình?”
“Về nhà sau khi tan học và lập kỉ lục thế giới về số tập chương trình Vua bếp mà con được xem liền tù tì, Mẹ thấy sao?”
Mẹ với tay lên chiếc kệ trên đầu giường của tôi và chộp lấy Bluie, chú gấu bông màu xanh mà tôi được tặng từ hồi tôi mới khoảng một tuổi – cái thời mình còn được phép đặt tên bạn bè theo màu sắc của họ.
“Thế con không muốn đi xem phim với Kaitlyn, Matt hay bạn nào đó sao?” những người này là bạn tôi.
Đó là một ý hay. “Dĩ nhiên rồi!” tôi hồ hởi đáp. “Để con nhắn tin cho Kaitlyn xem nhỏ có muốn đi mua sắm hay làm gì đó sau giờ học không.”
Mẹ cười, ôm chú gấu bông vào lòng. “Liệu đi mua sắm có còn là điều tuyệt vời không ta?” bà hỏi.
“Con rất tự hào về chuyện không phân biệt được cái gì là tuyệt vời đó nha Mẹ,” tôi đáp tỉnh bơ.
…
Tôi nhắn tin cho Kaitlyn, tắm táp, thay đồ, và sau đó Mẹ chở tôi đến trường. Hôm nay có lớp Văn học Mỹ. Cô giảng về Frederick Douglass trong một hội trường gần như vắng teo, và thật vô cùng khó khăn để không phải ngủ gật trong lớp. Vào phút thứ bốn mươi ba của tiết học dài chín mươi phút, Kaitlyn nhắn tin lại.
Tuyệt cú mèo. Chúc mừng sinh nhật chia đôi nhé. Ở Castleton lúc 3:32 nha?
Kaitlyn có một cuộc sống xã hội bận rộn đến mức lịch trình sinh hoạt được tính đến từng phút. Tôi nhắn trả lời:
Nghe hay đó. Hẹn gặp ở khu ẩm thực nhé!
Từ trường, Mẹ lái xe đưa tôi đến thẳng hiệu sách nối liền khu trung tâm mua sắm. Ở đó tôi mua cả hai cuốn Bình minh lúc nửa đêm và Cầu siêu cho Mayhem, hai tập đầu của cuốn Cái giá của Bình minh. Rồi tôi băng ngang khu ẩm thực rộng thênh thang và mua một lon Coca Diet. Lúc đó đã là 3:21.
Tôi ngồi đọc truyện, thỉnh thoảng ngước nhìn những đứa trẻ đang nô đùa trong khu vui chơi mô hình tàu cướp biển. Có hai đứa trẻ cứ bò tới bò lui trong một đường hầm và dường như chúng không lúc nào biết mệt, khiến tôi lại miên man suy nghĩ đến Augustus Waters và trò ném bóng dở hơi.
Mẹ cũng vào khu ẩm thực, một mình, ngồi trong một góc mà bà nghĩ là tôi không thể nhìn thấy, thong thả ăn bánh sandwich kẹp bít-tết và phô mai. Vừa ăn bà vừa đọc một số giấy tờ. Có lẽ là tài liệu y tế. Thủ tục y tế là vô tận.
Đúng boong 3:32, tôi thấy Kaitlyn sải bước tự tin qua tòa nhà Wok House. Nhỏ nhìn thấy tôi ngay khi tôi vừa giơ tay vẫy, và không quên cười nhe hàm răng mới chỉnh trắng tinh, đi thẳng đến chỗ tôi.
Nhỏ mặc một chiếc áo khoác màu xám than dài đến gối, ôm vừa khít người và mang một cặp kính mắt to đùng che gần hết khuôn mặt. Nhỏ đẩy kính lên trên đầu khi cúi xuống ôm tôi.
“Bồ khỏe không?” nhỏ hỏi, lơ lớ giọng Anh. Sẽ không ai thấy chất giọng này lạ hay khó chịu cả. Kaitlyn chỉ vô tình là một cô nàng quý tộc Anh hai mươi lăm tuổi cực kỳ sành điệu bị mắc kẹt trong một cơ thể thiếu nữ mười sáu tuổi ở thành phố Indianapolis này. Ai cũng sẽ chấp nhận sự thật đó.
“Mình khỏe. Còn bồ?”
“Mình cũng không biết nữa. Đó là Coca Diet hả?” Tôi gật đầu và đưa lon nước cho nhỏ, nhỏ cầm lấy hút vài ngụm. “Mình ước gì bồ còn đi học chung. Mấy chàng trai giờ nhìn ngon lành hết sảy.”
“Ồ, vậy hả? Như chàng nào?” Tôi hỏi. Nhỏ hăm hở kể tên năm anh chàng từng học chung thời tiểu học và trung học với chúng tôi, nhưng tôi không thể hình dung được bất kỳ ai trong số đó.
“Dạo này mình đang hẹn hò với Derek Wellington,” nhỏ nói, “Nhưng mình cũng chẳng lâu dài đâu, hắn còn trẻ con quá. Mà thôi, nói về mình thế đủ rồi. Bồ có gì mới trong thế giới của Hazel không nào?”
“Thật ra cũng chẳng có gì,” tôi đáp.
“Thế sức khỏe bồ tốt không?”
“Cũng vậy à!”
“Phalanxifor!” nhỏ cười toe toét. “Nhờ vậy mà giờ bồ có thể sống mãi mãi, phải không?”
“Có thể không được mãi mãi đâu,” tôi trả lời.
“Nhưng cơ bản là vậy,” nhỏ liến thoắng. “Còn tin gì mới nữa nào?”
Tôi định sẽ kể cho nhỏ nghe rằng tôi cũng đang qua lại với một anh chàng, hay chí ít là tôi đã cùng xem phim với một người khác giới. Bởi vì tôi biết tin đó sẽ khiến nhỏ bất ngờ và thích thú vì một đứa con gái ăn mặc lôi thôi, gầy nhom và vụng về như tôi có thể nhanh chóng chiếm được cảm tình của một chàng trai. Nhưng tôi cũng không thực sự có gì nhiều nhặn để khoe khoang, nên tôi chỉ nhún vai.
“Đây là gì vậy trời?” Kaitlyn chỉ cuốn truyện và hỏi.
“Ồ, truyện khoa học viễn tưởng ấy mà. Mình đang ghiền đọc loạt truyện này.”
“Bồ làm mình hơi cảnh giác đó. Thế giờ tụi mình đi mua giày nhé?”
Hai đứa cùng đến cửa hàng giày. Trong lúc đang chọn mua, Kaitlyn cứ liên tục đưa mấy kiểu giày bệt hở mũi cho tôi và khen tới tấp, “Đôi này trông dễ thương với bồ nè!” nhắc tôi nhớ rằng Kaitlyn không bao giờ mang giày hở mũi bởi nhỏ ghét ngón chân của mình. Nhỏ cứ bị ám ảnh là ngón chân nhỏ quá dài, như thể ngón chân trỏ là cửa sổ tâm hồn hay đại loại thế. Nên khi tôi chỉ một đôi dép rất tiệp với màu da của nhỏ, nhỏ ngần ngừ: “Ừ thì cũng đẹp, nhưng…” Nhưng ở đây có nghĩa là nhưng nó sẽ làm lộ ngón chân trỏ gớm ghiếc của mình cho bàn dân thiên hạ xem. Tôi thốt lên: “Kaitlyn, bồ là người duy nhất mình biết bị bệnh mặc cảm ngón chân đó,” và nhỏ ngơ ngác hỏi: “Bồ nói gì thế?”
“Thì giống như khi bồ soi gương, bồ thấy khiếm khuyết khiến bồ mặc cảm cứ lồ lộ ra, nhưng thật sự thì chẳng đến nỗi nào đâu.”
“À, à, mình hiểu rồi,” nhỏ gật gù. “Thế bồ thích đôi này không?” Nhỏ giơ ra một đôi giày Mary Janes xinh xắn nhưng không mấy đặc sắc. Tôi gật đầu và thế là nhỏ tìm cỡ chân mình, xỏ vào thử và cứ bước tới bước lui, vừa đi vừa ngắm nhìn chân mình qua chiếc gương cao đến đầu gối. Sau đó, nhỏ lại chộp lấy một đôi giày xăng-đan cao gót và nói: “Mình có thể đi đôi này không nhỉ? Ý mình là, chắc mình sẽ chết—” và chợt im bặt, ngại ngần nhìn tôi như muốn nói mình xin lỗi, như thể đó là một trọng tội khi nhắc đến cái chết với người đang sắp chết vậy. “Bồ nên thử đôi này,” Kaitlyn mở lời, cố gắng xua tan cảm giác ngượng ngùng.
“Mình sẽ chết sớm,” tôi bảo.
Cuối cùng tôi chỉ chọn một vài đôi dép kẹp để có cái mà mua. Xong tôi ngồi phịch xuống một băng ghế đối diện với kệ trưng bày giày và ngó Kaitlyn lượn lờ xem giày, với một sự tập trung cao độ thường thấy ở mấy kiện tướng cờ vua chuyên nghiệp. Tôi muốn lấy cuốn Bình minh lúc nửa đêm ra đọc một chốc nhưng làm vậy có phần khiếm nhã nhên tôi chỉ ngồi nhìn Kaitlyn. Thỉnh thoảng nhỏ vòng lại chỗ tôi, tay nắm chặt một số mẫu giày bít mũi và hỏi: “Đôi này nha?” Tôi cố gắng tìm một lời bình luận thông minh, và cuối cùng nhỏ mua những ba đôi còn tôi mua mớ dép kẹp đã chọn. Và khi cả hai vừa ra khỏi cửa hàng, nhỏ hỏi: “Qua bên Anthropologie không?”
“Mình nên về nhà,” tôi đáp. “Mình thấy hơi mệt trong người.”
“Ừ, phải rồi!” nhỏ nói. “Mình phải thường xuyên gặp bồ hơn.” Nhỏ quàng tay lên vai tôi, hôn lên má rồi quay lưng đi, cái hông nhỏ lắc lư theo nhịp bước. Nhưng tôi không về nhà. Tôi đã dặn mẹ đến đón lúc sáu giờ chiều, và khi thấy bà không có trong khu mua sắm hay dưới bãi đậu xe, tôi muốn dành hai giờ còn lại cho bản thân.
Tôi thương Mẹ, nhưng sự có mặt thường xuyên của bà đôi khi khiến tôi thấy khó chịu một cách kỳ lạ. Cũng như tôi quý Kaitlyn. Tôi thực sự rất quý nhỏ. Nhưng ba năm đằng đẵng không gặp gỡ bạn bè thường xuyên như hồi học chính quy, tôi cảm thấy có một khoảng cách nhất định khó lấp giữa chúng tôi. Tôi nghĩ các bạn cũng muốn giúp tôi vượt qua căn bệnh ung thư này, nhưng cuối cùng họ thấy bất lực. Bởi vì căn bệnh này không thể vượt qua.
Nên tôi thường viện cớ mệt và đau mỗi khi gặp Kaitlyn hay bất kì bạn nào khác trong mấy năm qua. Thật ra thì tôi luôn luôn thấy đau. Đau khi không thở được như một người bình thường, khi không phải ngừng nhắc nhở lá phổi phải làm nhiệm vụ của nó, khi buộc phải chấp nhận không thể cắt được cơn đau xé người của chứng suy hô hấp. Vậy thật ra tôi đâu nói dối, tôi chỉ lựa chọn giữa nhiều sự thật mà thôi.
Tôi tìm thấy một băng ghế nằm giữa các cửa hàng Quà tặng Ireland, Viết máy Emporium, và một cửa hàng bán mũ bóng chày – một góc của khu trung tâm mà thậm chí Kaitlyn sẽ không bao giờ ghé qua mua sắm. Thế là tôi bắt đầu đọc cuốn Bình minh lúc nửa đêm.
Truyện gần như cứ một câu là có một người chết và tôi say sưa đọc mà không buồn nhìn lên. Tôi thích Trung sĩ Max Mayhem, mặc dù ông không hẳn là giỏi chuyên môn, chủ yếu tôi thích những cuộc phiêu lưu của ông cứ tiếp diễn liên tục. Lúc nào cũng có nhiều kẻ xấu để tiêu diệt và nhiều người tốt để bảo vệ. Ông bắt đầu cuộc chiến mới cả trước khi chiến thắng cuộc cũ. Thật sự tôi chưa hề đọc một loạt truyện như vầy kể từ khi tôi lớn, và giờ thật thú vị khi sống lại trong thế giới hư cấu vô tận này.
Hai mươi trang cuối truyện, tình hình trở nên bi kịch với Mayhem, khi ông bị bắn mười bảy lần trong một nỗ lực giải cứu con tin (là gái Mỹ, tóc vàng) từ Kẻ thù. Tuy nhiên, từ góc độ người đọc, tôi không thấy thất vọng. Nỗ lực chiến đấu sẽ trường tồn dù không còn Mayhem. Có thể - và thật sự là thế - phần tiếp theo sẽ có sự tham gia của đội quân của ông: Chuyên gia Manny Loco và Thám tử tư Jasper Jacks cùng những đồng đội khác.
Khi tôi sắp đọc hết truyện thì có một cô bé tóc tết bím xuất hiện trước mặt tôi, hỏi: “Cái gì trong mũi của chị vậy?”
Tôi đáp: “Ừm, nó gọi là ống thông. Cái ống này cung cấp ô-xy cho chị, giúp chị hít thở.” Mẹ cô bé chạy đến và nói vẻ không hài lòng, “Jackie!” Tôi vội trấn an, “Không, không sao đâu cô,” vì thật ra cũng chẳng có gì nghiêm trọng. Sau đó Jackie lại hỏi: “Thế nó có giúp em hít thở được không?”
“Chị cũng không rõ. Hay chúng ta thử nhé.” Nói đoạn tôi rút ống ra và cho Jackie gắn ống thông vào trong mũi của cô bé và thở. “Nhột quá!” cô bé thốt lên.
“Chị biết mà!”
“Em nghĩ em thở tốt hơn,” cô bé nói.
“Vậy à?”
“Dạ.”
“Ừ,” tôi đáp, “Ước gì chị có thể tặng em chiếc ống này nhưng chị thực sự cần nó để trợ thở.” Tôi bắt đầu thấy hụt ô-xy. Tôi ráng tập trung hít thở khi Jackie trả ống lại cho tôi. Tôi nhanh chóng luồn dây vào trong áo thun, móc vòng ra sau vành tai và đặt các đầu ống vào vị trí cũ.
“Cảm ơn chị đã cho em thử nó,” cô bé nói.
“Không có gì đâu bé!”
“Jackie,” mẹ cô bé lại kêu, và lần này tôi để cô bé đi theo mẹ.
Tôi quay trở lại với cuốn truyện, tới đoạn Trung sĩ Max Mayhem thấy ray rứt vì ông chỉ có một mạng sống để cống hiến cho Tổ quốc. Nhưng tôi cứ miên man nghĩ về cô bé tóc bím, tôi thích cô bé biết nhường nào.
Còn một điều nữa về Kaitlyn, theo tôi, là không bao giờ tôi cảm thấy tự nhiên khi nói chuyện với nhỏ nữa. Bất kỳ nỗ lực xã giao bình thường nào cũng chỉ tổ làm tăng thêm thất vọng. Bởi vì rõ rành rành là tất cả mọi người tôi tiếp xúc trong suốt quãng đời còn lại sẽ luôn thấy khó xử và lúc nào cũng ý thức về căn bệnh của tôi, ngoại trừ trẻ em như Jackie vốn chẳng biết gì mấy.
Dù sao, tôi thực sự thích được ở một mình. Tôi thích ở một mình đơn độc với vị Trung sĩ Max Mayhem đáng thương, người mà - ồ, không phải chứ, đừng nói ông ta vẫn tiếp tục sống sót sau mười bảy vết đạn này nha!
(Cảnh báo ẩn: Ông vẫn sống.)
Chương 4
Tối hôm đó tôi lên giường sớm hơn thường lệ. Sau khi thay áo thun và quần cộc, tôi quấn mình trong chăn, kê đầu lên gối trên chiếc giường cỡ vừa – một trong những chốn yêu thích của tôi. Rồi bắt đầu đọc cuốn Nỗi đau tột cùng lần thứ một triệu.
NĐTC kể về một cô bạn tên là Anna (Cũng là người dẫn truyện) và người mẹ một mắt của bạn ấy – một thợ làm vườn chuyên nghiệp bị ám ảnh bởi hoa tulip. Họ có một cuộc sống bình dị của tầng lớp hạ lưu trong một thị trấn nhỏ ở miền trung California cho đến khi Anna mắc bệnh ung thư máu hiếm gặp.
Tuy nhiên đây không phải là một cuốn truyện ung thư. Truyện ung thư thường chán phèo, kiểu như bệnh nhân ung thư trong đó sẽ thành lập một tổ chức từ thiện gây quỹ chống lại bệnh ung thư, đúng không? Và sứ mệnh từ thiện này nhắc nhở bệnh nhân ung thư về bản chất tốt đẹp trong mỗi con người, khiến cho anh chàng/ cô nàng thấy mình được yêu thương và được khích lệ bởi vì anh chàng/ cô nàng sẽ để lại một nguồn kinh phí chữa ung thư. Nhưng trong NĐTC, Anna cho rằng là một người bị ung thư mà bắt đầu một tổ chức từ thiện chống ung thư là hơi tự kỷ. Thế nên bạn ấy thành lập một tổ chức từ thiện có tên là Quỹ Anna dành cho Bệnh nhân Ung thư Muốn Chữa Dịch Tả.
Ngoài ra, Anna cũng rất thành thật về tất cả mọi chuyện mà không phải ai cũng chịu thừa nhận: Trong suốt cuốn truyện, bạn ấy nói về mình như là tác dụng phụ của căn bệnh ung thư, mà điều đó hoàn toàn đúng. Trái đất này nhờ những đột biến mới có được sự đa dạng sinh học, và bệnh nhi ung thư thực chất là tác dụng phụ của quá trình đột biến không ngừng đó. Câu chuyện cứ thế tiếp diễn, bạn Anna ngày càng bệnh nặng hơn, các liệu pháp điều trị lẫn căn bệnh thi nhau cướp lấy sinh mệnh bạn ấy. Còn mẹ bạn thì đem lòng yêu một thương nhân buôn hoa tulip Hà Lan mà Anna gọi là Chú Tulip Hà Lan. Chú Tulip Hà Lan có rất nhiều tiền cùng những ý tưởng rất lập dị về phương pháp điều trị ung thư. Anna nghĩ rằng ông chú này có thể là một tay lừa bịp và thậm chí có khả năng không phải là người Hà Lan. Thế rồi vào lúc ông chú Hà Lan và mẹ bạn sắp kết hôn, còn Anna bắt đầu thử nghiệm phác đồ điều trị mới khá điên rồ bằng các dược liệu như cỏ lúa mì và một ít thạch tín, thì cuốn truyện đột ngột kết thúc ngay giữa.
Tôi biết đó là một quyết định rất văn học về mọi việc trong truyện. Cái kết lưng chừng này có lẽ là một phần lý do tôi yêu thích tác phẩm đến vậy. Nhưng cần có gì đó cho biết là câu chuyện đã kết thúc. Và nếu nó không thể kết thúc thì ít ra là nên tiếp tục kéo dài liên tu bất tận như cuộc phiêu lưu của trung đội Trung sĩ Max Mayhem.
Tôi hiểu câu chuyện kết thúc bởi vì Anna đã chết hoặc sức khỏe quá yếu, không cho phép bạn tiếp tục viết. Tôi cũng tin rằng việc bỏ lửng câu thế này sẽ phản ánh chân thật rằng cuộc sống thường kết thúc đột ngột như thế. Nhưng ngoài Anna còn có nhiều nhân vật khác trong câu chuyện, và thật không công bằng khi tôi không bao giờ biết những gì xảy ra với họ sau đó. Tôi đã viết, thông qua địa chỉ nhà xuất bản, hơn chục lá thư cho Peter Van Houten. Mỗi lá thư đều nhằm tìm kiếm câu trả lời về những gì xảy ra sau khi câu chuyện kết thúc: liệu Chú Tulip Hà Lan có phải là kẻ bịp bợm, liệu mẹ Anna cuối cùng cũng kết hôn với ông, chuyện gì xảy ra với chú chuột hamster ngu ngốc của Anna (thú cưng mà mẹ bạn cực ghét), các bạn của Anna có tốt nghiệp trung học không – tất tần tật mọi chi tiết. Thế nhưng tác giả chưa bao giờ trả lời cho bất kỳ lá thư nào của tôi.
NĐTC là cuốn sách đầu tay và duy nhất của Peter Van Houten. Người ta chỉ biết mông lung rằng ông đã rời Mỹ về lại Hà Lan sau khi cuốn sách ra đời và sống một cuộc đời ẩn dật. Tôi tưởng tượng rằng ông đang viết phần tiếp theo lấy bối cảnh là Hà Lan – có thể mẹ Anna và Chú Tulip Hà Lan cuối cùng đã chuyển đến đây và cố gắng bắt đầu một cuộc sống mới. Nhưng đã mười năm trôi qua kể từ khi cuốn Nỗi đau tột cùng được phát hành, Van Houten đã chẳng công bố gì thêm, đến một bài blog cũng không. Tôi không thể chờ đợi mãi được.
Khi đọc lại truyện đêm đó, tôi cứ liên tục bị phân tâm khi tưởng tượng lan man là Augustus Waters cũng đang đọc những dòng tương tự. Tôi tự hỏi liệu anh có thích nó không, hay lại gạt sang một bên không đọc vì nghĩ tôi làm màu. Rồi tôi chợt nhớ lời hứa sẽ gọi cho anh sau khi đọc xong Cái giá của Bình minh. Thế là tôi tìm số di động của anh ở trang đầu tiên và nhắn tin cho anh.
Nhận xét về Cái giá của Bình minh: Đầy rẫy người chết. Không đủ vốn từ miêu tả. Còn NĐTC thì sao?
Một phút sau anh nhắn tin lại:
Theo anh nhớ thì em hứa sẽ GỌI sau khi đọc hết truyện, chứ không phải nhắn tin.
Thế là tôi gọi.
“Hazel Grace,” giọng anh hồ hởi khi vừa bắt máy.
“Vậy anh đã đọc chưa?”
“Có, nhưng chưa xong. Truyện dày đến sáu trăm năm mươi trang mà anh chỉ có hai mươi bốn tiếng đồng hồ.”
“Vậy anh đọc đến đâu rồi?”
“Trang bốn trăm năm mươi ba.”
“Và?”
“Anh sẽ không nhận xét gì cho đến khi đọc xong truyện. Tuy nhiên anh xin nói rằng anh cảm thấy hơi xấu hổ khi đã đưa cho em cuốn Cái giá của Bình minh.”
“Anh không cần phải xấu hổ đâu. Tôi đã đọc sang cuốn Cầu siêu cho Mayhem rồi.”
“Một phần bổ sung sáng giá cho loạt truyện. Được rồi, thế tay buôn tulip có phải kẻ bịp không? Anh có linh cảm không hay về tay này.”
“Biết trước mất hay!” Tôi đáp.
“Nếu tay ấy không phải một quý ông đàng hoàng thì anh sẽ moi mắt hắn ra.”
“Xem ra anh kết truyện này nhỉ.”
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian